Cắt ống dẫn trứng: biện pháp triệt sản đầu tay
Theo một bài báo được đăng online ngày 5 tháng 8 năm 2014 trên tạp chí Obstetrics & Gynecology,
cắt ống dẫn trứng nên được xem như biện pháp triệt sản đầu tay vì nó
mang lại hiệu quả vĩnh viễn và có thể giúp phòng ngừa một số type ung
thư buồng trứng bắt nguồn từ ống dẫn trứng.
Theo BS. Mitchell D. Creinin – Trưởng Bộ
môn Sản Phụ khoa Đại học California, Davis và PGS. Nikki Zite – Bộ môn
Sản Phụ khoa Đại học Tennessee, Knoxville, biện pháp này được cân nhắc
vì một số kết quả nghiên cứu cho thấy ung thư buồng trứng thường xuất
phát từ ống dẫn trứng; bên cạnh đó, các tiến bộ về mặt kỹ thuật đã giúp
giảm thiểu các nguy cơ của việc cắt ống dẫn trứng, khiến các nguy cơ này
cũng tương đương như phương pháp thắt ống dẫn trứng.
Dù được triệt sản vào thời điểm xa lần
mang thai cuối cùng hay gần/ngay sau khi sinh con thì biện pháp triệt
sản nữ đều mang lại hiệu quả cao. Từ trước đến nay, làm gián đoạn ống
dẫn trứng là phương pháp triệt sản đầu tay.
Tuy nhiên, theo BS. Creinin và BS. Zite,
“nếu đem vấn đề này ra thảo luận với bệnh nhân thì có lẽ chính hiệu quả
cao của phương pháp cắt ống dẫn trứng mới là điều người phụ nữ mong
muốn”.
Việc có những bằng chứng mới cho thấy
ung thư tuyến (adenocarcinoma) – loại ung thư buồng trứng thường gặp
nhất – có thể xuất phát từ ống dẫn trứng đã làm tăng số trường hợp áp
dụng triệt sản bằng phương pháp cắt ống dẫn trứng. Các nghiên cứu cũng
cho thấy nguy cơ trong phẫu thuật của cắt và thắt ống dẫn trứng là như
nhau.
Dù vậy, vấn đề đặt ra không chỉ tập
trung vào việc phòng ung thư buồng trứng mà quan trọng hơn là tại sao
chúng ta lại không cho phụ nữ một cơ hội triệt sản với hiệu quả gần như
100% với phương pháp cắt ống dẫn trứng hoàn toàn, BS. Creinin và BS.
Zite viết.
Bắt đầu thay đổi
Theo các tác giả, các nghiên cứu gần đây
chỉ ra rằng các nhà lâm sàng thường cân nhắc cắt ống dẫn trứng khi
triệt sản cho những phụ nữ có nguy cơ ung thư cao vì đột biến gen BRCA,
nhưng câu hỏi lớn hơn là liệu nhà phụ khoa có cân nhắc thay đổi cách
thức trước giờ để áp dụng cắt ống dẫn trứng cho cả những phụ nữ không có
đột biến BRCA.
Một số nhà lâm sàng vẫn còn quan ngại về
các vấn đề như vết mổ phải rộng hơn để cắt ống dẫn trứng cho phụ nữ sau
sinh ngả âm đạo, chi phí tăng lên khi thời gian phẫu thuật tăng thêm 10
phút và có thể một số phụ nữ sẽ hối tiếc sau khi thực hiện phẫu thuật.
Tuy nhiên, các bằng chứng thu được vẫn ủng hộ phương pháp cắt ống dẫn
trứng.
Các tác giả trích dẫn kết quả từ một
nghiên cứu lớn tại British Columbia, Canada, cho thấy sau một thời gian
cập nhật về vấn đề này cho các nhà phụ khoa, họ đã bắt đầu áp dụng
phương pháp cắt ống dẫn trứng 2 bên kèm với cắt tử cung thường xuyên hơn
là thắt ống dẫn trứng, và không có sự khác biệt về bệnh suất.
“Các tiến bộ kỹ thuật đã giúp giảm thiểu
nguy cơ khi thực hiện cắt ống dẫn trứng, chỉ còn tương đương với thắt
ống dẫn trứng. Điều quan trọng nhất là đừng quên bàn bạc với người phụ
nữ về cắt ống dẫn trứng như là một lựa chọn, đơn giản vì đây là phương
pháp hiệu quả nhất”.
Các nghiên cứu đang tiến hành
“Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không
có sự gia tăng nguy cơ khi thực hiện cắt ống dẫn trứng nhưng sẽ phải
mất ít nhất 10 đến 15 năm để quan sát hiệu quả”, PGS. Jessica N.
McAlpine, Khoa Ung thư Phụ khoa – Đại học British Columbia, Vancouver,
Canada, tác giả của nghiên cứu British Columbia cho biết.
“Nếu bạn đang xem xét liệu phương pháp
này có tác động làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng hay không thì cần
phải có thời gian. Vấn đề mấu chốt là chúng ta chưa tầm soát đầy đủ ung
thư buồng trứng trong dân số chung cũng như chưa có thay đổi nào về hiệu
quả điều trị trong 3 thập niên gần đây. Chúng tôi nghĩ, phương pháp này
có thể mang lại sự thay đổi. Nó an toàn và chúng tôi đang xem xét như
là lựa chọn tối ưu”.
Về mặt hiệu quả, những nghiên cứu nhỏ hơn cho thấy có sự giảm ung thư buồng trứng, BS. Alpine nói, “nhưng chúng rất nhỏ”.
Về vấn đề liệu có lý do nào để chúng ta
không phải cắt bỏ ống dẫn trứng không, bà nói: “Chúng tôi không nghĩ có
lý do nào cho việc đó. Việc kẹp sát tử cung và cắt bỏ cả ống dẫn trứng
và buồng trứng thường dễ hơn. Tôi nghĩ đó chỉ là vấn đề về kỹ năng phẫu
thuật”. Vài người lo lắng về khả năng ảnh hưởng do thay đổi hormone.
“Nhưng nếu bạn làm đúng kỹ thuật…tôi không nghĩ đó là vấn đề”.
BS. McAlpine kết luận: “Tôi nghĩ sẽ thật
tuyệt nếu ngày càng có nhiều người thực hiện cắt ống dẫn trứng vì có
thể nó sẽ giúp các thế hệ sau tránh được khả năng phát triển căn bệnh
này, tuy nhiên tôi không hề có ý cường điệu về những gì chúng tôi đã làm
được”.
Cần thêm dữ liệu
Phát biểu về vấn đề này, Giáo sư William
D. Foulkes – thuộc Chương trình nghiên cứu Ung thư và Di truyền, Đại
học McGill, Montreal, Quebec và là biên tập viên của tạp chí Current Oncology - nói:
“Tôi hiểu về những điều đang được tranh cãi. Quan trọng là nhận ra rằng
chưa hề có bằng chứng từ các nghiên cứu tiến cứu. Tất cả chỉ dựa trên
suy luận và phân tích hồi cứu. Điều chúng ta chưa biết là có bao nhiêu
phần trăm ung thư buồng trứng trong dân số xuất phát từ ống dẫn trứng.
Đó là câu hỏi quan trọng. Một con số khác cần biết là tỷ lệ ung thư
không liên quan đến di truyền xuất phát từ ống dẫn trứng”.
“Biện pháp này chỉ có thể tác động đáng
kể đến tần suất ung thư buồng trứng khi phần lớn các trường hợp ung thư
buồng trứng là xuất phát từ ống dẫn trứng”, ông nói thêm. “Cần có nghiên
cứu về tác động của các yếu tố di truyền tiến hành song song trên càng
nhiều bệnh nhân càng tốt. Rõ ràng là nếu bạn có nguy cơ cao hơn mắc ung
thư buồng trứng do gen thì di truyền ắt hẳn là yếu tố nguy cơ chiếm tỷ
lệ cao nhất trong dân số, khi đó tìm kiếm phát hiện người có nguy cơ
cao có thể giúp cứu sống trực tiếp được nhiều phụ nữ. Số lượng ống dẫn
trứng bị cắt bỏ để cứu sống bệnh nhân có thể sẽ ít hơn nhiều nếu bạn
thực sự biết một phụ nữ nào đó có nguy cơ cao”.
“Cần tiến hành nhiều nghiên cứu để xem
xét các nguy cơ tiềm ẩn. Điều này đương nhiên phức tạp hơn nhiều so với
việc đơn giản là kẹp ống dẫn trứng, và thực tế là có một số phụ nữ sẽ
hối hận về quyết định của mình nếu họ còn trẻ, đặc biệt là nếu bạn cắt
toàn bộ ống dẫn trứng”.
Ông kết luận: “Tôi không hề phản đối ý
tưởng này. Tôi chỉ tự hỏi liệu các lợi ích có đủ lớn hay không. Có thể
nhiều phụ nữ sẽ suy nghĩ khác về vấn đề này”.
ThS. BS. Trần Thị Liên Hương (Dịch)
P. Kế hoạch tổng hợp - BV Từ Dũ
P. Kế hoạch tổng hợp - BV Từ Dũ
0 comments:
Post a Comment